Thiên Sơn Mộ Tuyết – Chương 37
Tôi cuối cùng vẫn theo lịch trình xuất ngoại, trao đổi du học sinh 1 năm.
Phía công an điều tra dừng lại giữa chừng, bản án trở thành tranh chấp dân sự, đến sau cùng, kì thực là dưới sự nỗ lực hết mình của luật sư song phương, họ đành làm lơ. Duyệt Oánh tìm giúp tôi cái người Từ Đại Trạng ấy thật biết cách, khiến tôi minh bạch vô tội thoát thân. Mộ gia không làm phiền nữa, như Mộ Chấn Phi từng nói, nhà họ cũng không đòi bồi thường thiệt hại gì. Bên khoa chỉ bảo tôi viết một bản tường trình, nói rõ sự việc đã qua, chứng mình tôi với vụ án này không liên quan, liền tiếp tục giúp tôi hoàn thành thủ tục du học.
Tình hình của Lâm Tư Nhàn ổn định dần, nhưng vẫn hôn mê bất tỉnh như cũ. Bác sĩ nói có lẽ nửa tháng cô ấy mới tỉnh được, có lẽ mãi mãi cũng không thể tỉnh được. Bố mẹ Lâm Tư Nhàn từ trong suy sụp cũng dần tê tái, tôi đến bệnh viện thăm Lâm Tư Nhàn, bác trai nói với tôi: “Đành tận tâm vậy, chỉ cần hai ông bà già này còn ở đây một ngày cũng không thể để người ta rút đi hơi thở cuối cùng của con bé.”
Tôi không biết ở ICU mỗi ngày viện phí là bao nhiêu, nhà Lâm Tư Nhàn có thể chi trả được bao lâu. Gia cảnh Lâm Tư Nhàn cũng khá tốt, tôi nghĩ bố mẹ nào cũng đều không muốn buông xuôi dù chỉ tia hy vọng cuối cùng, khuynh gia bại sản, cũng phải để đứa con tiếp tục được sống. Tiêu Sơn giúp đỡ rất nhiều việc, việc trong bệnh viện tất thảy đều là anh thu xếp, bố mẹ Lâm Tư Nhàn đều nói: “Khổ cho đứa trẻ này rồi.”
Họ nửa đã coi Tiêu Sơn như con trai trong nhà, là chỗ dựa cuối cùng. Bác gái nói với tôi: “Tiểu Nhàn cho dù chết cũng có ý nghĩa, Tiêu Sơn đối với nó như thế.”
Bác ấy nói đến chữ “chết”, thậm chí bình tĩnh đến khô cạn nước mắt.
Tiêu Sơn cũng rất bình thản, anh nói với tôi: “Em đi du học đi, nhà Lâm Tư Nhàn thế này, anh nghĩ dù anh và em có ở bên nhau, trong lòng em cũng sẽ không an tâm.”
Lại nói anh chỉ còn 1 năm nữa là tốt nghiệp, đến lúc đó, có lẽ Lâm Tư Nhàn đã tỉnh lại rồi, có lẽ Lâm Tư Nhàn vĩnh viễn cũng không tỉnh lại nữa.
Anh ở lại nơi này, cả hai chúng tôi mới cùng thanh thản trong lòng.
Duyệt Oánh cứ mắng tôi dại, lần này cô ấy lại mắng Tiêu Sơn ngốc. Cô ấy tức khí ào ào chỉ trán tôi: “Thì cậu là Thánh mẫu! Thì anh ta là Thánh nhân! Các người thật sự thần thánh đến cả một đôi rồi!
Tôi ngốc nghếch hề hề cười với cô ấy, cô ấy càng giận hơn: “Này! Tớ đang mắng cậu đấy!”
Tôi nói: “Tớ sắp phải đi rồi, một thời gian dài cậu sẽ không thể mắng được tớ nữa, cũng không thể chỉ trán tớ nữa rồi.”
Chỉ một câu đã suýt làm nước mắt Duyệt Oánh tràn hết xuống, cô ấy nặng nề nện tôi 1 cái: “Cậu sao luôn đáng ghét thế này chứ!”
Duyệt Oánh tiễn tôi ra tận sân bay, còn có một đống bạn bè cùng lớp. Hành lý thì Duyệt Oánh sắp xếp mấy bạn nam giúp tôi kéo, tôi đem theo rất nhiều đồ, bởi vì lúc thu dọn hành lí, Duyệt Oánh luôn ngồi trước mặt tôi lải nhải: “Đem cái này đi, cậu dùng quen rồi, ở Mỹ không bán hiệu này! Cái này cũng đem theo đi, đỡ mất công cậu đến được Mỹ, sinh hoạt không quen, lúc muốn mua cũng không tìm ngay được….”
Tôi cảm thấy tôi không còn là đi Mỹ nữa, mà giống như đi Nam Phi. Trừ việc khẳng định là hành lý nặng quá trọng lượng quy định ra, tôi còn kéo kèm theo một vali cỡ to nhất được cho phép, định để trên khoang máy bay.
Tiêu Sơn cũng đến sân bay tiễn tôi, anh không nói chuyện riêng với tôi. Duyệt Oánh luôn đưa mắt ra hiệu, tôi nghĩ tôi và anh đã không cần trò chuyện gì nữa. Tôi hiểu anh đang nghĩ gì, anh cũng hiểu tôi đang nghĩ gì.
Sắp đến giờ kiểm tra an toàn, mỗi người đều tiến lên ôm tạm biệt tôi, những trường hợp như thế này mọi người đều trở nên cởi mở hơn. Phần lớn bạn bè trong lớp đều trêu đùa, bảo tôi ở Mỹ cố gắng sống tốt, tranh thủ tiện tay lấy cái học bổng học lên thạc sĩ, mọi người đều chúc tôi lên đường may mắn.
Tôi ôm từng người một, sắp lúc biệt li, tôi mới biết mình có bao nhiêu luyến tiếc. Tôi luôn muốn rời bỏ nơi này, đến một nơi không có người quen biết mình, nhưng đến ngày hôm nay, tôi mới biết bản thân không nỡ cách xa đến nhường nào. Tôi ở thành phố này thời gian 3 năm đại học, dành cho tôi không phải chỉ có thương đau, mà còn rất nhiều việc vụn vặt linh tinh, hằng ngày ung dung nảy nở tình cảm.
Tôi nghĩ tôi chung quy vẫn sẽ quay về thôi, không cần biết tôi học thế nào, không cần biết tôi đạt được học vị gì, tôi nghĩ mình nhất định sẽ lại trở về.
Duyệt Oánh ôm chặt tôi, thì thào bên tai: “Tìm một bạn giai Bắc Âu đi, siêu đẹp trai đấy!”
Tôi nhớ lại cái anh chàng Jack mắt xanh bạc lần tôi đi lượn lờ mua sắm cùng cô ấy. Tôi kìm chế nước mắt, cười với cô ấy: “Giống Jack ấy à, nếu như có thật, tớ nhất định phần cậu một anh.”
Duyệt Oánh cũng cười, đôi mắt long lanh lóng lánh, giống như tôi, có chút ánh nước sóng sánh: “I’m the king of the world!”
Cô ấy siết chặt tay tôi, tôi cũng sít sao nắm tay cô ấy.
Đời này có Duyệt Oánh làm bạn, thật sự là phúc lớn của tôi.
Tiêu Sơn là người cuối cùng chia tay tôi, anh dùng giọng thấp trầm chỉ dành riêng cho 2 người chúng tôi vừa đủ nghe, anh nói: “Anh sẽ đợi em, mãi mãi.”
Tôi căng phồng kìm dòng nước mắt, tôi dốc cạn cả tình yêu thời thanh xuân, tôi một mực cho rằng, đấy là Tiêu Sơn của tôi.
Vận mệnh luôn từng lần từng lần đến cướp anh khỏi tôi, cho đến tận ngày hôm nay, anh chỉ có thể nói anh sẽ đợi tôi, mãi mãi.
Có lẽ chúng tôi thật sự không có duyên phận, nhưng ai mà biết được, có lẽ ở chỗ ngoặt tiếp theo của vận mệnh, chúng tôi còn có thể tương phùng.
Hành lý đều đã gửi vận chuyển, tôi đứng ở cửa an toàn, quay người, vẫy tay với tất cả mọi người lần cuối cùng.
Tôi nhìn Duyệt Oánh vẫy tay lần cuối cùng, tôi nhìn Tiêu Sơn vẫy tay lần cuối cùng, tôi nhìn các bạn cùng lớp vẫy tay lần cuối cùng.
Hẹn gặp lại, Duyệt Oánh.
Hẹn gặp lại, Tiêu Sơn.
Hẹn gặp lại, các bạn cùng lớp của tôi.
Cửa an ninh xếp hàng rất dài, bởi thời gian các chuyến bay đáp hạ tới tấp. Hơn nữa bên an ninh lại rất tỉ mỉ, tôi nghĩ nguyên do dạo gần đây thành phố có hội nghị quan trọng. Mỗi lần thành phố triệp tập hội nghị quan trọng, an ninh ở sân bay nghiêm ngặt đến nỗi làm người ta phát run. Đến lượt tôi, tôi đặt vali kéo theo lên băng chuyền, rồi lấy máy tính và điện thoại ra, đặt vào giỏ đồ vặt vãnh.
Tôi đi qua cửa an toàn, đột nhiên nghe từ phía bàn kiểm tra có nhân viên an ninh gọi tôi: “Đây là vali của cô à? Phiền cô mở ngăn đáy ra.”
Tôi lơ mơ không rõ nhìn anh ta: “Vali của tôi không có ngăn đáy.”
“Xin cô phối hợp để chúng tôi kiểm tra.”
Chiếc vali này còn là chiếc mà Mạc Thiệu Khiêm mua cho tôi, tôi dùng bao lâu nay cũng không biết có ngăn đáy gì không. Bởi vì nó nhỏ gọn, lại cực kì chắc chắn, kích thước vừa may để được trên khoang máy bay, thế nên lần này tôi tiện tay xách nó theo, tôi mở khóa số, rồi lật toàn bộ nắp vali lên, hỏi bọn họ: “Các anh tự xem đi, không có ngăn đáy.”
Nhân viên an ninh giơ tay lấy một phần đồ đạc trong vali ra, tay lần mò đáy vali, tôi không biết anh ta ấn chỗ nào, lại có một tiếng “tách” bật ra thêm một nắp nữa, bên trong hóa ra thật sự có lớp đáy.
Nhân viên an ninh lấy chiếc điện thoại ra, nói kiểu giọng điệu nghề nghiệp: “Theo quy định về an ninh, tất cả đồ đạc cá nhân như điện thoại, máy tính xách tay toàn bộ phải lấy ra để kiểm ra riêng, sao cô còn để trong ngăn đáy?”
Tôi ngố cả người, tôi không biết chiếc vali có ngăn đáy, đương nhiên càng không biết trong ngăn đáy lại có điện thoại. Nhân viên an ninh đã đưa điện thoại cho bên máy quét kiểm tra, sau đó trả lại cho tôi, khẩu khí dạy dỗ y nguyên: “Lần sau đừng thế nữa.”
Tôi giờ mới nhận ra, là điện thoại của Mạc Thiệu Khiêm, lần Mộ Vịnh Phi đòi tôi đi tìm anh, tôi đã gọi không biết bao nhiêu lần vào số điện thoại của anh, nhưng vẫn khóa máy. Tôi cho rằng anh đổi số rồi, tôi không biết tại vì sao điện thoại của anh lại ở đây, tại vì sao lại ở trong lớp đáy của vali, lần đi vùng biển cùng với anh tôi đã dùng chiếc vali này.
Tôi còn từng lén lút xem trộm chiếc điện thoại, hơn nữa kết quả xem trộm còn khiến tôi một trận hoảng loạn.
Có lẽ lần trở về từ vùng biển ấy, anh để chiếc điện thoại trong vali tôi, lúc đó hành lí cũng là anh thu xếp, cũng là anh gửi vận chuyển.
Tim tôi tê cứng thành một cục, ngón cái theo bản nắng ấn nút nguồn, tôi cũng không hiểu bản thân vì sao lại làm thế.
Có lẽ tôi còn ước ao có thể nhìn thấy cái gì chăng - còn có cái gì đâu cơ chứ? Giữa tôi và anh, sớm đã không có bất kì mối quan hệ nào nữa rồi.
Điện thoại được mở, giao diện hoàn toàn bình thường, dò được sóng. Tôi vùi đầu muốn lật tìm 2 bức ảnh đó liệu có còn không, nhưng nhân viên an ninh đang thúc giục tôi, đằng sau còn có nhiều người đang xếp hàng.
Tôi một tay cầm điện thoại, một tay quơ loạn vali đóng lại, kẹp túi laptop, dành chỗ cho người phía sau dồn lên.
Vào đúng lúc ấy, điện thoại của tôi đột nhiên reo lên, báo có tin nhắn, tôi nghĩ chắc là Duyệt Oánh gửi tin nhắn hỏi tôi qua cửa an toàn thuận lợi chứ. Tôi cuống cuồng chân tay, suýt thì đánh rơi laptop xuống đất. Tôi lại đi lên trước vài bước, đi đến đường trượt rộng rãi hơn, để vali dựa vào tường, mở điện thoại của mình ra xem.
Tin nhắn lại là từ số điện thoại của Mạc Thiệu Khiêm. Số riêng của anh sớm đã bị tôi xóa đi rồi, nhưng tôi luôn thuộc làu làu.
Mà còn là số từ chiếc điện thoại tôi đang cầm rành rành trên tay đây. Mạc Thiệu Khiêm trước nay chưa từng gửi tin cho tôi, anh cảm thấy gửi tin nhắn lãng phí thời gian, thế nên trước giờ đều cần là gọi thẳng. Tôi do dự mắc túi laptop vào vali, rồi nhảy tay bật mở màn hình điện thoại của Mạc Thiệu Khiêm, phát hiện trong máy sớm đã hẹn sẵn một chức năng tự động, chỉ cần lúc mở máy lên sẽ tự động gửi đoạn tin nhắn đã soạn sẵn sang số tôi.
Nếu như tôi không dùng chiếc vali này nữa, nếu như tôi vất chiếc vali này đi, có lẽ chiếc điện thoại sẽ vĩnh viễn nằm trong ngăn đáy, không bao giờ lại thấy ánh mặt trời nữa.
Anh vì sao phải làm chuyện kì quái đến thế chứ?
Tôi dùng đôi bàn tay đang run rẩy, mở tin nhắn vừa nhận được trên điện thoại mình.
Tin nhắn vô cùng ngắn gọn, ngắn gọn chỉ vỏn vẹn có 3 chữ.
Ba chữ hiển thị rõ ràng trên màn hình điện thoại, không có mở đầu, không có đề tên, không có bất kì lời lẽ dư thừa nào, giống như phong thái làm việc trước nay của anh, giống như thái độ trước nay của anh đối với tôi.
Mà tầm nhìn của tôi ngày càng nhạt nhòa đi.
Tôi cầm điện thoại anh, bạt mạng ấn mở hết các nút chức năng, tôi không biết bản thân đang tìm cái gì, tôi cuối cùng tìm đến mục hình ảnh. Bên trong lại thành 3 bức ảnh, 2 bức ảnh trước kia tôi từng nhìn, một bức ảnh lúc tôi đang ngủ, tên file là “Đồng Tuyết”, bức kia lúc tôi đang cười, tên file đặt là “Đồng Tuyết 2”. Tôi cuối cùng lật sang bức thứ 3.
Bức ảnh thứ ba cũng là lúc tôi đang ngủ, nhưng trong ảnh không phải chỉ có một mình tôi, tôi được Mạc Thiệu Khiêm ôm trong lòng, cánh tay anh vươn không xa lắm, thế nên anh chỉ chụp có non nửa khuôn mặt, nhưng tôi lại hiện ra rất rõ nét, mặt tôi đang yên bìnhvùi sâu trong lồng ngực anh, nét môi hơi có ý cười. Tôi trước nay không biết bản thân mình lúc ngủ còn cười kiểu này, tôi trước nay không biết bản thân mình còn dán mặt vào lồng ngực anh kiểu này.
Tên bức ảnh ấy, cùng với đoạn tin nhắn được soạn sẵn kia, nội dung y chang y tạc. Đều là ba chữ ngắn ngủi giản đơn.
Tôi ngắm nhìn bức ảnh, ngắm nhìn điệu bộ anh ôm tôi, ngắm nhìn nụ cười trên môi, ngắm nhìn nửa khuôn mặt anh. Nếu như tôi không xách chiếc vali này theo, nếu như tôi không dùng chiếc vali này nữa, nếu như tôi vất chiếc vali này đi, hoặc có lẽ tôi vĩnh viễn không bao giờ biết, anh đang làm cái gì. Anh xưa nay không biết tôi xem lén điện thoại anh, đương lúc anh đặt điện thoại vào vali, anh biết đâu cũng một mực nghĩ rằng, trọn đời này vĩnh viễn không cần cho tôi biết, anh rốt cuộc từng làm những gì.
Tôi nhìn ngắm ba chữ ngắn gọn trên màn hình điện thoại, xa lạ là thế, thân quen là thế, ngắn gọn là thế, thẳng thắn là thế, tôi chưa từng nghĩ anh sẽ nói với tôi 3 chữ ấy:
“Anh yêu em.”
Tôi đứng ở sân bay giữa dòng người qua lại, đột nhiên khóc hu hu như một đứa trẻ.
0 nhận xét